T4. Th11 19th, 2025

Đêm trước ngày cưới của cô Hạnh và anh Quân, tôi thức đến gần sáng. Mùi nhang từ bàn thờ chị Hà quyện vào mùi nước hoa nhè nhẹ của lọ cắm huệ trắng mới thay, thành một thứ hương dằng dặc, vừa mát vừa đắng. Gió ngoài hiên lùa qua tấm màn ren, nâng dải khăn tang mỏng còn đặt trên khung ảnh chị, để nó khẽ rung như một tiếng thở dài không chịu tắt.

Trong nhà, mọi thứ đã được sắp xếp theo một trật tự mới, lạ lẫm như khi người ta đổi vị trí ghế bàn mà vẫn ngồi vào đúng chỗ cũ của mình: tấm phông đỏ căng giữa phòng khách, đôi câu đối mạ vàng bóng loáng, bức ảnh cưới in sẵn của cô Hạnh và anh Quân dựng nghiêng trên kệ gỗ, phía góc khuất là con gấu bông của bé Măng – con gái chị Hà – ôm một chiếc nơ sờn mép. Ánh đèn vàng rọi lên những miếng decal hình chim hạc, chúng đứng thành đôi, cổ vươn hướng về một chỗ nào đó tôi không biết.

Chị gái tôi, Hà, mất vào tháng Ba. Đợt mưa trái mùa kéo dài, chuyến xe từ miền núi về thành phố gặp sạt lở. Người ta bảo chị bị cuốn xuống suối, tìm được chiếc nhẫn vàng kẹt trong kẽ đá như một vệt nắng mắc vào rêu xanh. Đám tang chị lặng lẽ. Anh Quân khóc đến sưng mắt, cô Hạnh cõng Măng đi quanh nhà, tay phát kẹo cho khách viếng như sợ con bé nhớ mẹ mà đòi. Tôi đặt tay lên khung ảnh, ngón tay chạm vào làn da vô hình của một người không còn ở đây, tự nhủ: sẽ qua thôi, sẽ qua.

Nhưng chưa kịp qua, người ta đã rủ nhau về nhà tôi ăn cưới.

Mọi bà con đều có cách rỉ rả riêng. Họ ghé tai nhau thì thầm ngoài hiên: “Mỗi người mỗi phận… nhưng cũng lạ ghê.” “Vừa xong 49 ngày đã nói chuyện cưới, nej?” “Cô ruột mà lấy rể của anh trai mình…” Những dấu ba chấm trôi dọc theo mấy cái cột nhà sơn giả gỗ, dừng ở mắt tôi. Tôi ngẩng lên, mỉm cười như một người vừa học xong bài học “điềm tĩnh”. Bên trong, mẹ tôi bưng mâm xôi gấc đặt lên bàn thờ. Bà nhìn tôi, yếu ớt: “Hổm rày má nằm mơ thấy chị con.” Tiếng “chị con” đi qua cổ họng bà như hòn sỏi.

Tôi không biết phải trả lời thế nào. Từ ngày ba mất sớm, cô Hạnh – em ruột của ba – lăn lộn với mẹ con tôi không khác gì mẹ ruột thứ hai. Cô ở ngay nhà bên, cái sân nhỏ nối giữa hai nhà có hàng giấy đỏ leo qua leo lại như một cành tay. Khi Hà lấy Quân, cô cười rạng rỡ như người gả con gái. Họ yêu nhau từ lớp 12, đi qua những mùa hoa điệp vàng, qua kỳ thi đại học trầy trật, qua cảnh nhà Quân nghèo như gió mùa. Rồi một ngày, Quân mặc vest vừa vặn, cầm tay chị tôi trong lễ cưới, còn cô đứng cạnh mẹ, lau nước mắt.

Thế nên khi anh Quân nói sẽ cưới cô Hạnh, tôi nghe tiếng thủy tinh rạn đâu đó trong đầu. “Cưới… cô?” Tôi nhắc lại, sợ mình nghe nhầm. Quân im lặng, tay anh siết chặt quai ly cà phê, mắt đỏ ngầu vì đêm nào cũng thức dỗ bé Măng. “Hạnh bảo, làm vậy để Măng có đủ cả cha lẫn mẹ… để có người đứng tên cùng anh, lo giấy tờ cho nó vào trường, rồi nhà cửa…” Anh nói như người đọc thuộc một lời giải thích cho qua một bài thi khó. “Hạnh thương em, thương Măng. Anh… anh cũng muốn có người thân trong nhà đỡ đần.” Anh tránh mắt tôi. Ở góc quán, cái quạt máy rung rung, thổi vào nhau những lớp bụi cũ.

“Còn chị Hà?” Tôi hỏi nhỏ. Câu hỏi như rơi xuống mặt bàn, bật lên một cái búng tay khô.

“Hà… không còn.” Quân khép mắt. Ở khóe môi anh có một đường rạn như vết nứt mỏng trên chén sứ.

Lúc ấy, tôi đã không biết giận ai. Tôi đi về nhà, qua hàng giấy, chạm vào cái lá đỏ khô giòn. Nó vỡ tan trong tay.

Ngày cưới đến rất nhanh, như mọi ngày buồn đều có một thói quen khẩn cấp. Bàn tròn bọc khăn trắng, ghế phủ vải satin, những dải lụa kết hình trái tim treo dọc lối đi. Mẹ tôi vẫn xếp củ hành tím vào góc bếp như mọi lần trong nhà có cỗ. Bà bảo làm vậy cho đỡ hăng mùi dầu mỡ. Tôi thấy tay bà run.

Cô Hạnh mặc áo dài đỏ. Cô đẹp một vẻ đẹp lặng lẽ, sự chín chắn và ngượng nghịu quấn vào nhau như hai sợi chỉ lẫn lộn. Cô từ chối đội khăn đóng: “Cô già rồi, đội cái chi nữa.” Cô nói vậy mà mắt lại nhìn vào tấm gương lâu hơn bình thường. Tôi ghé sau lưng cô. “Cô,” tôi gọi, giữ tay cô trong lòng bàn tay mình. Tay cô lạnh. “Cô chắc chưa?” Cô nhìn tôi qua gương, nụ cười như một đường cong mỏi mệt. “An, đời không đi thẳng, con ơi. Trái tim mình có đường vòng, miễn là đi để quay về nhà.”

Tôi im. Tôi không hỏi vì sao cô và anh Quân lại vội nhau đến thế. Đôi khi người lớn có những vội vàng mà người trẻ không cách nào hiểu hết trọn.

Lễ gia tiên diễn ra vào buổi sáng. Họ hàng hai bên xếp thành hai hàng. Khói nhang bay chao, người ta lầm rầm khấn. Cặp đèn cầy đỏ run rẩy như hai kẻ say rượu.

Đến trưa, rạp cưới chật người. MC nói những câu quen thuộc, kể một câu chuyện lạc đề về bông hoa tự tìm thấy nắng. Con bé Măng – váy trắng, giày búp bê hồng – chạy lăng xăng giữa các bàn, đôi mắt tròn vo. Tôi gọi nó, bế lên. “Bữa nay, Măng ngoan, nha.” Nó gật, ríu rít: “Mẹ ơi…” Rồi nó chợt khựng lại, như nhớ ra, đổi giọng: “Cô ơi…” Tôi ôm chặt nó thêm một chút.

Và chính lúc MC hô “Xin mời cô dâu chú rể tiến vào”, khi tiếng vỗ tay chưa kịp rộ lên hết, khi bản nhạc “Ngày đầu tiên” mới lên được nhịp thứ hai, thì cửa rạp mở ra.

Một người phụ nữ bước vào, dáng gầy, mặc một chiếc áo nâu mộc, tóc búi gọn sau gáy. Trên cổ bà đeo một hạt chuỗi gỗ. Bà không son phấn, tay trái mang một chiếc vòng bạc mờ. Bà không phải dạng khách mời ai cũng biết. Bà bước chậm, nhưng mỗi bước đi uốn nếp im lặng của cả hội trường theo gót chân mình. Mọi tiếng nói cụp xuống, như những cái lồng bàn đậy vội lên bát canh nghi ngút.

By admin

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *